Thứ Ba, 26 tháng 2, 2013

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 6

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 5

Học Phong Thủy

101.- Vận suy, hạn suy hỉ Tử Vi chi giải hung ác.
- Như đại tiểu hạn gặp hung sát tinh mà thân mệnh có Tử Vi thủ chiếu, hạn tuy hung cũng chủ bình thường, ẩn tránh đi được là nhờ thân mệnh vậy.
102.- Cô bần đa hữu thọ, phú quí tức yểu vong.
- Như mệnh thân có những sao hãm nhược, và Tài quan Tử tức ở nơi hãm địa thì nghèo hèn mới được sống lâu.
Lại như Thái Tuế toạ mệnh, chủ tinh hại nhược hoặc tài quan thiên di hoá cát tinh, hoặc lại được hạn tốt ắt được hoạnh phát nhưng không lâu, được 10 hay 20 năm quá vọng yểu vong.
103.- Điếu Khách Tang Môn, Lục Châu hữu truỵ lầu chỉ nguy.
- Đại tiểu hạn ngộ đàng trước có Tang Môn, đàng sau có Điếu Khách và Thái Tuế phùng hung tinh ắt bị kinh sợ hiểm nghèo, như Lục châu bị ngã trên lầu cao xuống.
104.-Quan phủ Thái Tuế, công dã huy tuỵ tiết chi ưu.
- Hai sao toạ thủ thân mệnh cung, trong nhị hạn lại gặp thì ắt bị trọng hình xiềng xích như anh thợ rèn nhà nước cũng có sự ưu sầu về xiềng xích.
105.-Hạn chí thiên la, địa võng.
Khuất nguyên nịch thuỷ như vong.

- Nhị hạn đi đến hai cung Thìn Tuất phùng Tham Vũ lại có Tang Môn, Điếu Khách, Bạch Hổ hội với Kiếp Không Tứ Sát xung chiếu ắt rất hung, như Khuất Nguyên bị chết đuối.
106.- Vận ngộ Địa Kiếp Thiên Không,
Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khổ.

- Họ nguyễn ở đời nhà Tấn chú cháu Nguyễn – hàn đều có tiếng là tài giỏi. Vận gặp Không Kiếp nên bị bần hàn. Hai hạn nếu gặp Không Kiếp và nhiều cát tinh thì cũng có nhiều tài và tài ra. Như thấy lưu niên có sát tinh ắt chủ bần khổ.
107.- Văn Xương Văn Khúc hội liêm chỉ táng mệnh thiên niên.
- An mệnh ở hai cung Tị Hợi có Liêm Trinh toạ thủ gia Xương Khúc ắt chết, người sinh năm Tân thì tối kỵ. Nếu có Vũ Khúc Thiên Tướng là tài tinh chiếu lại cứu cho thì lại phản lại là giàu có và có chủ quyền
           (Xem số ông P.V.T dưới đây)
108.- Mệnh không, hạn không vô cát tấu công danh thăng đặng.
- Như mệnh và hạn phùng không gia sát tinh thì công danh không thành tựu hoặc có chính tinh cát tinh cát hoá phùng Không Kiếp cũng làm được chức nhỏ, khó nhọc cũng không lên cao được.
109.- Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên triết sĩ.
- Cung mệnh có Thiên Không toạ thủ thì bình thường, sợ nhất trung niên bị nghiêng nghèo, nửa đời đức loạn, như con chim bay lưng chừng trơi gãy cách. Nếu hoạnh phát ắt bị hung vong. Người sinh giờ Tị, Hợi, Tý Ngọ ắt bị như trên.
110.- Mệnh trung ngộ kiếp, kháp như lãng lý hành thoàn.
- Cung mệnh phùng Địa Kiếp là người bình thường. Chủ không có tiền tài, nếu gia sát kỵ thì thậm hung đời lênh bênh như con thuyền trên nước. 


Học Phong Thủy

111.- Hạng vũ anh hùng hạn chí Địa Không nhi táng quốc.                 
- Số Hạng vũ tiểu hạn gặp Địa Không ở cung thân, mệnh an tại Ngọ có Quyền Lộc gia hội, ngộ long phượng, là số cực phú quí. Nhưng Lộc Tồn thủ mệnh bị đối cung có Kỵ tinh xung phá thế là cát xứ phùng hung, 32 tuổi đại hạn đến cung Mão có Vũ sát có Thái Tuế gia hoả và Tham Liêm cư hợi nên chết ỏ hạn đó, 32 tuổi tiểu hạn ở cung thân ngộ Không cho nên thắt cổ chết ở Ô giang mà mất nước vậy.
112.- Thạch sùng hào phú, hạn hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
- Đại tiểu nhị hạn có 2 sao Địa Kiếp, Địa Không lâm vào nơi hãm địa lại gặp lưu niên Dương Đà sát tinh thì rất hung. Giàu có lớn lao như thạch sùng cũng bị vong gia.
113.-Lã hậu chuyên quyền lưỡng trọng thiên lộc, Thiên Mã.
- Mệnh của bà Lã hậu có Lộc Tồn phùng hoá lộc cùng với Thiên Mã đồng thủ mệnh, nên mới chuyên quyền.
114.- Dương phi hiếu sắc tam hợp Văn Khúc, Văn Xương.
- Cung mệnh, tài, quan và Thiên di có Xương Khúc chiếu lại hội với Thái Âm, Thiên Cơ tất chủ dâm dật như số bà dương phi.
115.- Thiên Lương ngộ , Mã nữ mệnh tiện nhi thả dâm.
- Như an mệnh ở 4 cung Dần Thân Tị Hợi có Thiên Lương toạ thũ mà tam hợp có Thiên Mã, đàn bà là kẻ bần tiện dâm dật.
116.- Xương Khúc giáp trì, nam mệnh quí nhi thả hiển.
- Thái Dương là đan trì ( thềm điện nhà vua) Thái Âm là quế phụ. Như Thái Âm, Thai dương ở cung Sửu Mùi an mệnh, trước sau có Tả Hữu, Xương Khúc lại giáp số đàn ông thì ắt quí hiển.
117.- Cực cư Mão Dậu đa vi thoát tục tăng nhân.
- Cực đây là thái cực chỉ sao Tử Vi như thủ mệnh an ở cung Mão Dậu gia sát tinh chủ tăng đạo không có sát tinh lại có cát hoả, Tả Hữu Khôi Việt lại là quí cách.
118.- Trinh cư Mão Dậu định thi công tứ lại bối.
- An mệnh ở 2 cung Mão Dậu có Liêm Trinh toạ thủ gia cát tinh định là người làm quan lại có lương.
119.- Tả thủ đồng cung tôn cư vạn thừa.
- An mệnh ở 2 cung Thìn Tuất có Thiên Phủ hội với Tả phủ gia cát tinh và cát hoả củng xung là cực phẩm chi quí.
120.-      Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng Thiên nhai.
- An mệnh ở hai cung Tị Hợi có 2 sao Liêm Trinh và Thất Sát lại có sát kỵ phùng Không Kiếp là người lang thang, hoặc phải bị đầu quân hay buôn bán gian lao khổ cực ở xa.

Học Phong Thủy

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 5

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 4


Học Phong Thủy


81. - Tử Phủ Nhật Nguyệt cư vượng địa, đoản định công hầu khí.
- Tử ở cung Ngọ, phủ ở cung Tuất. Nhật ở cung Mão, nguyệt ở cung Hợi, lại có Khoa Quyền Lộc toạ thủ thân mệnh là cách công hầu như ngọc tốt sáng ngời. Nếu gặp sát Kiếp Không Kỵ là thất cách.
82.-Nhật Nguyệt Khoa Lộc Sửu cung trung, định thị phương bá công.
- An mệnh ở cung Sửu Mùi, Nhật Nguyệt Khoa Lộc toạ thủ. Như không có tam hoá mà có Nhật Nguyệt đồng cung cũng không tốt. Nếu không có cát tinh chiếu lại, quyết đoán là phúc không thể sinh ra được. Nếu Ngọ hoá cát thì tốt lắm uy quyền phúc thọ lại càng tăng.
83.- Thiên Lương Thiên Mã hãm, phóng đãng vô nghi.
- Như mệnh an ở cung Tị Hợi, thân có Thiên Lương toạ thủ là lạc hãm lại có Thiên Mã đồng cung. Hoặc lại có Hoả Đà Không Kiếp ắt là người chỉ ham chơi bời phóng đãng không sai.
84.- Liêm Trinh sát bất gia, thanh danh viễn bá.
-Sát đây là Tứ Sát là Dương, Đà, Hoả, Linh. Như an mệnh ở cung Mão có Liêm Trinh toạ thủ thì chủ qui, có cát tinh chiếu hợp lại càng tốt thêm, danh tiếng nổi khắp mọi nơi. Có sát tinh thì bình thường. Hoặc mệnh an ở hai cung Mùi, thân có Liêm Trinh toạ thủ không có sát tinh thì cũng được vinh hiển.
85.- Nhật chiếu lôi môn, phú quí vinh hoa.
- An mệnh ở cung maõ có Thái Dương toạ thủ, 3 phương hợp lại có Tả Hữu Xương Khúc, Khôi Việt thì phú quí vinh hiển vô cùng. Người sinh năm Giáp Ất canh tân thì hợp cách. Nếu bị Hình Kỵ Tứ Sát thì chỉ được no ấm. (cung Mão là quẻ Chấn kinh dịch nói rằng: “ Chấn vi lôi” nên gọi cung Mão là lôi môn)
86.- Nguyệt lãng thiên môn, tiến tước phong hầu.
- An mệnh ở cung Hợi có Thái Âm toạ thủ, 3 phương có cát tinh hợp chiếu thì chủ đại phú quí. Nếu không có cát tinh thì chỉ làm chức thường. Người sinh năm binh đinh chủ quí, sinh năm nhâm ắt quí giàu lớn. ( cung Hợi là quả kiền - dịch nói rằng: “ kiền vi thiên” nên gọi cung Hợi là thiên môn).
87.- Dần phùng phủ tướng, vị đăng nhất phẩm chi vinh.
-An mệnh ở cung Dần, phủ ở cung Ngọ, tướng ở cung Tuất cũng chiếu. Người sinh năm Giáp thì đúng cách, làm đến nhất phẩm triêù đình có sát tinh thì thất cách.
88.- Mộ phùng Tả Hữu tôn cư bát toạ chi quí.
- An mệnh ở cung Thìn Tuất Sửu Mùi, hai sao Tả Hữu toạ thủ ở đó là đúng cách ắt công hầu khanh tướng không sai. Hoặc ba cung thiên di, quan lộc, tài bạch có hai sao trên cũng chủ phúc thọ.
89.- Lương cư Ngọ vị, quan tứ thanh hiển.
- Mệnh cư cung Ngọ có Thiên Lương toạ thủ thì đứng cách. Người sinh năm Đinh là thượng cách, làm quan được nhiều tài lộc và quí hiển, năm kỷ là thứ cách, năm quí chỉ phú nhưng cũng là thứ cách.
90.-Khúc ngộ lương tinh vị chí thai cương.
- Mệnh an ở cung Ngọ, 2 sao Văn Khúc, Thiên Lương đồng cung là thượng cách, làm đến cận thần. Mệnh an ở cung Dần là thứ cách. Hoặc Lương tại Ngọ, khúc tại tý xung lên thì làm quan đến nhị, tam phẩm là quí cách.

Học Phong Thủy


91.- Khoa Lộc tuần phùng, Chu Bột hân nhiên nhập Tướng.
- Cung mệnh có cát tinh toạ thủ, ba phương có tam hoá cũng chiếu. Hay trước cung mệnh ba vị như mệnh tại cung Hợi, trước ba cung là cung Dần gặp Khoa Quyền Lộc đền chủ phú quí. Như Chu Bột hân nhiên được lên làm tướng.
92.- Văn tinh ám củng - Mại Nghị duẫn hỷ đăng khoa.
- Mệnh cung có cát tinh. Cung thiên di, quan lộc tài bạch ba phương có Xương Khúc khoa chiều cũng là như Mại nghị còn nhỏ tuổi đã dỗ cao.
93.- Kình Dương Hoả Tinh uy quyền xuất chúng, đồng hành Tham Vũ uy yểm Biên di.
- An mệnh ở tứ mộ Thìn Tuất Sửu Mùi ngộ dương hoả nhập miếu thì văn võ toàn tài, uy quyền xuất chúng, binh quyền vạn lý. Như Tham Vũ ngộ hoả tại vượng địa thì cũng vậy.
94.- Lý quảng bất phong, Kình Dương phùng ư Lực Sĩ.
- Lý quảng là tướng anh hùng nhà hán, có công lớn dẹp Phiên mà không được phong vì Kình Dương phùng ư Lực Sĩ.
- Hai sao đó toạ tủ mệnh lại có cát tinh nhiều thì được bình thường, thêm sát tinh nữa thì tốt hung, số đàn bà mà gặp thì khỏi phải luận.
95.- Nhan Hồi yểu triết, Văn Xương hãm ư yểu thương.
- Người sinh năm Sửu, an mệnh ở cung Dần, có vân sương ở Cung Mùi hãm địa là yểu thương. Lưu niên hạn lại gặp Thất Sát, kinh đà thì chết non như số Nhan hôì vậy (Nhan á thánh)
96.- Trọng Do mãnh liệt, Liêm Trinh nhập miếu ngộ tướng quân.
- Trọng Do là thầy tử lộ. Mệnh cư thân có Liêm Trinh ngộ tướng quân toạ thủ thành ra người rất dũng mãnh tuy là bậc hiến sĩ vậy.
97.- Tử vũ tài năng, cự tú Đồng Lương xung thả hợp.
-Mệnh có Tử Vũ lập ở cung thân, cung Tý có thiên đồng, cung Dần có Cự Môn, cung Thìn có Thiên Lương, lại có Khoa Quyền Lộc Tả Hữu cùng xung hợp là cách tài ba quán thế.
98.- Dần Thân tối hỉ Đồng Lương hội.
- An mệnh ở cung Dần có hai sao toạ thủ lại có hoá cát (Khoa Quyền Lộc). Người sinh năm Giáp, Canh, Thân thì phú quí. Như an mệnh ở cung thân có 2 sao trên toạ thủ gia cát tinh, người sinh như trên cũng phú quí.
99.- Thìn Tuất ứng hiềm hãm Cự Môn.
An mệnh ở cung Thìn Tuất có sao Cự Môn thất hãm chủ người làm việc điên đảo, gia sát là chủ khẩu thiệt thị phi, hình thương khắc hại.
100.-Lộc đảo, Mã đảo kỵ Thái Tuế chi hợp Kiếp Không.
- Như lộc mã lâm vào bại tuyệt không vong chi địa mà lưu niên Thái Tuế hội với Kiếp Không chủ lẫn lộn tai nạn hối lẫn, phát mà không giữ được tiền.

Học Phong Thủy


CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 4

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 3

Học Phong Thủy

61.- Tử Phủ đồng cung, trung thân phúc hậu.
- Như ở hai cung Dần Thân an Mệnh Thân có Thiên Phủ Tử Vi đồng cung, ba phương hợp lại có Tả Hữu Khôi Việt cũng chiếu ắt là trung thân phú quí phúc hậu. Người sinh năm Giáp thì hết sức tốt. Cực mỹ.
62.- Tử Vi cư Ngọ vô sát thấu vị chí công khanh.
-Như người sinh năm Giáp đinh kỷ an mệnh ở cung Ngọ có sao Tử Vi thì đúng cách, làm đến công khanh đại quí. Còn ở các cùng khác thì cũng chủ giàu có hoặc tiểu quí.
63.- Thiên Phủ lâm Tuất hữu tinh phù yếu kim y tử.
- Như người sinh năm Giáp Kỷ an mệnh ở cung Tuất có Thiên Phủ và có cát tinh cũng hợp thì đại quí làm đến đại thần, có sát tinh thì không đúng. Cần có Khôi Việt, Tả Hữu lộc quyền chủ đại phú quí, nếu không có cát tinh trên thì cũng bình thường.
64- Khoa, Quyền, Lộc củng, danh dự chiếu trương.
- Như Thân mệnh được trong tam hoá, cung tài bạch và quan lộc có hai hoá lại hợp với nhau gọi là tam hợp, gọi là Khoa Quyền Lộc củng như vậy thì danh giá rực rỡ làm đến tam công.
65.- Vũ Khúc miếu viên, uy danh hách dịch.
- Như hai cung Thìn Tuất an mệnh có Vũ Khúc là thượng cách an mệnh ở hai cung Sửu Mùi là thứ cách có nên Quyền Lộc Tả Hữu, Xương Khúc cát tinh thì uy danh hống hách vang lừng.
66.- Khoa minh Lộc ám, vị liệt tam thai.
- Như người sinh năm Giáp, an mệnh ở cung Hợi có Hoá Khoa lại có thiên Lộc (hoá lộc) cư cung Dần (Hợi hợp Dần) gọi là cách Khoa minh Lộc am thì quan sang chức trọng vị đến tam công.
67.- Nhật Nguyệt đồng lâm, quan cư hầu bá.
- Như mệnh an ở cung Sửu, Nhật Nguyệt tại Cung Mùi, hay mệnh an ở Cung Mùi, Nhật Nguyệt ở cung Sửu thì gọi là đồng lâm.
Nhật Nguyệt đồng lâm thì luận đối cung, người sinh năm Bính Tân thì được phúc hưng long, vị đến hầu bá.
68.- Cự Cơ đồng cung canh khanh chi vị.
- Như người sinh năm Tân Ất an mệnh ở cung Mão có hai sao Cự Môn và Thiên Cơ thủ toạ lại gặp Xương Khúc, Tả Hữu là thượng cách. Người sinh năm Bính lại là thứ cách, Người sinh năm Đinh chủ bình thường. Còn các cung khác thì không phải.
69.-Tham linh tịnh thủ, tướng tướng chi danh
- Như an Mệnh ở cung Thìn Tuất Sửu Mùi Tý có Tham Lang và Linh Tinh là nhập miếu thì văn võ toàn tài vị đến tể tướng. Nếu lại được cát tinh mệnh an ở cung Tý Thìn lại còn tốt hơn. Người sinh năm Mậu Kỷ thì hợp cách.
70.- Thiên Khôi, Thiên Việt cái thế văn chương.
- Như thân mệnh có Thiên Khôi toạ thủ, đối cung có Thiên Việt hay thân mệnh có Việt toạ thủ đối cung có Khôi, cũng gọi là cách toạ quí hướng quí lại có cát tinh hợp chiếu thì văn chương lừng lẫy là cách đại quí vậy.

Học Phong Thủy


71.-Thiên lộc Thiên Mã kinh nhân giáp đệ.
- Như an thân mệnh ở bốn cung Dần Thân Tị Hợi có thiên Lộc Thiên Mã toạ thủ lại hội cát tinh thì đỗ cao tốt, người người kính phục, nếu bị sát tinh thì không như vậy.
72.- Tả Phụ, Văn Xương hội cát tinh, tôn cư bát toạ.
- Như thân mệnh có Tả Phụ và Văn Xương toạ thủ, ba phương hội lại có cát tinh thì được quí cách làm đến công khanh có sát Kiếp Không thì không hợp cách.
73.- Tham Lang Hoả Tinh cư miếu vượng danh trấn chư bang.
- Như an mệnh ở bốn cung Thìn Tuất Sửu Mùi có sao Tham Lang và Hoả Tinh toạ thủ là thượng cách, danh tiếng vang lừng các nước. Ba cung có cát tinh cùng chiếu lại càng tốt thêm. Như an mệnh ở cung Mão, không có sát tinh là thứ cách, như có Dương Đà Kiếp Không thì không dùng cách.
74- Cự nhật đồng cung quan phong tam đại.
-Mệnh an ở cung Dần, có hai sao Cự Môn và Thái Dương là đúng cách, nếu thân giáp hay ngộ Quyền Lộc thì vị đến công khanh. Nếu gặp Tứ Sát lại có Hoá Kỵ lại là người bình thường.
75.- Nhật Nguyệt tịnh minh, tả cửu trùng ư nghiêu diện.
- Như mệnh an ở cung Sửu Nhật tại Tị nguyệt tại Dậu chiếu lại gọi là cách Nhật Nguyệt tịnh minh là đại thần phò tá minh quân. Người sinh năm Tân Ất là hợp cách, sinh năm Bính chủ quí, sinh năm Đinh chủ phú, nếu gặp Tứ Sát Không Kiếp Kỵ thì lại bình thường.
76.- Khoa quyền đối củng diệu, tam cấp ư vũ môn.
- Như Khoa Quyền Lộc, ở cung thiên di, tài bạch quan lộc, xung hợp chiếu mệnh là hợp cách, hay cung mệnh có Hoá Khoa, Quyền Lộc ở 3 cung chiếu lại, không bị sát thì cũng vậy, làm quan đến thượng phẩm trong triều đình.
77.- Phủ tướng đồng lai hội mệnh cung, toàn gia thực lộc.
- Như phủ, tướng ở ba cung chiếu lại bản cung nhiều cát tinh, thân mệnh không bị bại là cách phủ tướng chiều viên, là phú quí song toàn. Nếu được cách phủ tướng chiều viên thì qyuết đoán nhất định là suất sĩ vi quan, đại cát sương.
78.- Tam hợp minh châu sinh vượng địa, ẩn bộ thiềm cung.
-Như an mệnh ở Cung Mùi, Nhật ở cung Mão, nguyệt ở cung Hợi chiếu lên gọi là cách minh châu xuất hải thì tài quan được song mỹ vẹn toàn. Như cung Thìn có nhật thủ mệnh, cung Tuất có nguyệt đối chiếu hay cung Tuất có nguyệt thủ mệnh, cung Thìn có nhật đối chiếu ắt chủ cực quí là thượng cách.
79.- Thất Sát Phá Quân nghi xuất ngoại.
- Như hai sao sát phá toạ thủ thân mệnh ở hãm địa chủ người tinh xảo về nghề thủ công, nên xuất ngoại thì được phát đạt. Lấy sát ở Dần Thân và Phá ở Tị Hợi mơí đoán như trên.
80.-Cơ Nguyệt Đồng Lương tác lại nhân.
- Bốn sao trên hợp lại ở cung thân mệnh là người có công danh về quan trường đao bút, nếu gặp Sát kỵ là hạ cách ở hai cung Dần Thân có bốn sao trên hội lại là người có quan tước, thiếu một sao thì không thành.


Học Phong Thủy

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 3

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 2

Học Phong Thủy

41.-Kỵ ám đồng cư mệnh cung tật nguy khốn nhược uông ly.
- Như cung thân mệnh, tật nguy (giải ách) có Cự Môn, Kình, Đà, Kỵ là người nghèo khổ, bệnh tật liên miên, tiêu tan tổ nghiệp, bôn ba lao khổ.
42.- Hình Sát hội Liêm Trinh ư quan lộc, giá hữu đồng lưu.
- Như Hình Sát liêm thủ cung quan lộc mà hai hạn gặp không hoạ hoạn thì ắt phùng hinh, tù, gông cùm không tránh khỏi.
43.- Quan phủ gia Hình Sát ư biện dị, ly hương tảo phối.
- Như cung thiên di có sao Quan phủ toạ thủ gia Hình Sát thì phải lập nghiệp nơi xa quê hương gặp vợ gặp chồng.
Những cách trong bài phú thái vi ở quyển 1 đã giải.

Những cách thiết yếu của đẩu số
Thái cực là chủ tể các quần tinh tú hết cả vũ trụ, là nguyên thuỷ của cả muôn loài, nguyên nhân của cuộc đại tạo, cái cửa huyền diệu cơ vi của ngươì và vật cho, nên nói thái cực là cái nguyên thuỷ phù thân trợ mệnh. Trên Trời là cái vật dụng vô thường vi như cái Fohat của bà Blavatsky nói trong quyển Doctrines secreles, nó là cái nguyên sinh linh khí của cả vũ trụ nhuần thắm từ chỗ nhỏ bé vô cùng tận (infmiment petit) đến cái lớn lao vô biên vô giới (infiniment grand).

Đối với người thì cái mệnh chịu ảnh hưởng trực tiếp của cái nguyên sinh linh khí trong cõi sinh tồn này, mỗi người một cách riêng mà cùng chung một hệ thống cho nên trước xem cách cuộc sau mới xem các sao xấu tốt.

Như có người sinh cùng một năm, cùng tháng, cùng ngày, cùng iờ mà phú quí bần tiện thọ yểu khác nhau là lý làm sao? Phải chăng cũng cùng một lá số lập thành, đồng sao tốt xấu trong cùng 12 cung. Đây là cái cơ vi mà người ta gọi là huyền bí của dẩu số vậy. Hoặc người sinh không cùng màu da, không cùng xứ sở, không đồng châu quận. Người ở nam kẻ ở bắc đối một vị sao có người hợp kẻ xung. Đối với lúc sinh hai người cùng sinh trai gái phân biệt, lúc ra đời người nằm sấp kẻ nằm nghiêng, ngay ở trong buồng đẻ công cộng rộng rãi mênh mông cũng đã khác hướng sinh rồi. Đó là những chỗ dị đồng để phân biệt ảnh hưởng của hai người đồng sinh đối với cái nguyên tử vô hình tuyến của thái cực vậy.

Trên đời cùng một lúc mà hoặc có kẻ tà ác ở trong cuộc hỗn tạp mà hưởng vạn phúc lành giàu có muôn chung, hoặc có người phúc hậu hiền từ, tài năng quán thế ở nơi dân trù nước thịnh mà tao ngộ tai ương liên miên không ngớt. Phải chăng là thời đạo chỉ huy độc đoán cái thiên mệnh mà không bao giờ sự vận thăng trầm, suy vượng ra ngoài hệ thống của thiên lý, mà ta có thể tự cho là hoạ phúc, phú bần, quí tiện đến với ta theo một hệ thống nhất định, theo cái thời của từng người tùng vật. Nên biết được đạo thời bằng câu “ nhất ẩm nhất trác gia do tiền định” (ăn uống đều do tiền định cả), không có cái gì trong thiên hạ là trường cửu, cái gì cũng phải có nhàn rồi mới có quả. Nên một sự vật đều có thiên mệnh cả, mỗi một đời người quí tựu rong một cuốn phim dần dần quay ra theo thời gian đã định. Cũng cùng một lúc nhiều cuốn phim cùng quay, có cuốn lúc đó vui cười ầm ỉ, có cuốn âm thầm buồn thảm. Cho nên nếu ta nói không có số mệnh ắt là hoạ phúc bắt nhất, cát hung xáo lộn vậy. Một số người tức như một cuốn phim của đời người đó từ từ quay ra theo thời gian đã ấn định trước, mà giờ, ngày, tháng, năm, sinh làm căn bản.
Nên xem số Tử Vi muốn biết vinh nhục, quí tiện phú bần của cả một đời người phải xem ngũ hành của cung vị lập mệnh thuộc hành gì, sinh khắc chế hoá ra sao để luận vậy, xem thân tuất là hiểu được cái gốc, cái nhân tự mình gây ra, ác thiện an bày.

Xem số của người cần nhất xem cung phúc đức để biết cái quả đời xưa tiền nhân để lại, thứ đến mệnh thân, sau đến cung thiên di và các cung khác, phải phân thể của đới cung, định cái nguyên nhân của cái tam hợp mệnh vô chính diệu thì phi yểu tắc bần, cát hữu hung tinh là ngọc quí có vết.

Đã thông bác được cái lý sanh khắc, chế hoá ngũ hành của các cung và sao một cách chắc chắn. Nếu thân mệnh hợp cục tường sinh ắt phú quí sống lâu mà sinh tài lộc.

Học Phong Thủy

Dưới đây là các cách cuộc
44.- Mệnh hảo, thân hảo, hạn hảo đáo lão vinh sương.
- Mệnh được ở cung sinh và sao tốt, thân cư vượng địa sao toạ thủ chiếu hợp tốt, hạn tốt thì đến già cũng được vinh hiển sung sướng.
45.- Mệnh suy, thân suy hạn suy chung thân khất điếu.
- Mệnh thân ở cung tử tuyệt, lại gặp nhiều hung tinh hãm địa, hạn gặp Dương Đà linh hoả thì suốt đời chỉ đi ăn mày.
46.- Giáp quí giáp lộc thiếu nhân tri
Giáp quyền giáp khoa thế sở nghi.

- Như người sinh năm Bính Đinh Nhâm Quí an mệnh tại Thìn Tuất có Khôi, Việt toạ thủ lại có Tử Vi, Thiên Phủ, Nhật Nguyệt, Quyền Lộc, Tả Hữu, Xương Khúc giáp thân mệnh nữa gọi là giáp quí ắt phú quí, ít người được.
Như người sinh năm Giáp, thân mệnh ở cung Sửu Mão mà ở cung Dần lại có lộc gọi là “sinh thành chi lộc” là thượng cách vậy. Còn như bốn năm Giáp Dần, Ất Mão Canh Thân, Tân Dậu được cùng cách đó cũng là thượng cách. Như người sinh năm Giáp an mệnh tại Tý, có Liêm Trinh Hoá Lộc cư Hợi, Phá Quân Hoá Qquyền ở Sửu, có Khoa Quyền Lộc giáp mệnh chủ phú quí.
47.- Giáp Nhật giáp Nguyệt thuỳ năng ngộ,
Giáp Xương giáp Khúc chủ quí hề.

- Như Thái Dương ở cung Dần, thân mệnh cư Sửu, cung Tý có Thái Âm, không nên gặp Không, Kiếp, Dương, Linh, ắt đại quý ít ai gặp được cách này. Như Xương Khúc giáp thân mệnh như cách trên cũng chủ quí.
48.- Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện
     Giáp Dương giáp Đà vi khất điếu.

Như Địa Không, Địa Kiếp, Dương Nhận (Kình Dương) Đà La giáp thân mệnh đối cung ở Liêm Trinh Vũ Khúc là hạ cách chủ hạ tiện, nếu không có cứu tinh chắc chết non.
Lại như mệnh có Hoá Kỵ Liêm Trinh Dương Đà Hoả Linh giáp cũng là hạ cách, hoặc có Lộc Tồn ở sinh vượng địa như cung Dậu thì dảm được không đến nỗi là hạ cách hoặc Dương Đà Không Kiếp ở ba phương chiếu lại ngộ Quyền Lộc không tại giáp là bại, vận hạn thì chủ tai ương.
49.- Liêm Trinh, Thất Sát phản vi tích phú chi nhân.
- Liêm Trinh thuộc hoả. Thất Sát thuộc kim, hoả khắc kim là quyền của Hoả như Liêm Trinh cư Mùi (hoả sinh thổ) là vượng địa, Thất Sát cư Ngọ ( hoả khắc kim) Thất Sát được chế hoá, nếu thân mệnh gặp ở hai cung Ngọ, Mùi là cách kỳ lạ nên trái lại thành giàu có. Nếu hai sao trên lâm vào hãm địa gặp Hoá Kỵ lại là hoạ cách, là người bần tiện.
50.- Thiên Lương, Thái Âm khước tác phiêu bồng chi khách.
- Thái Âm cư những cung Mão Thìn Tị Ngọ là hãm địa. Như thân mệnh cư Tị Ngọ, có Thái Âm thủ toạ lại gặp Thiên Lương hợp chiếu là hạ cách, là người đói rét lang bạt kỳ hồ, tha phương cầu thực ham mê tửu sắc. Có Thiên Lương (hoá ấm) cũng không thể cứu được. 51.-      Liêm Trinh chủ hạ tiện chi cô hàn,
Thái Âm chủ nhất thân chi khoái lạc.
- Như thân mệnh có Liêm Trinh cư Tị hợi là hãm địa, 3 phương xung hợp và trước sau 2 cung không có cát tinh thì cũng giáp ắt bị nghèo hèn lâu năm.
Lại như thân mệnh có Thái Âm cư từ Cung Mùi đến Tý là đắt địa ắt chủ phú quí, nhiều cát tinh cùng chiếu thì đại phú quí, ít cát tinh chủ văn võ công danh.
52.- Tiền bần hậu phú, Vũ Tham đồng thân mệnh chi cung.
- Như thân mệnh an ở cung Sửu Mùi có hai sao Vũ Khúc Tham Lang đồng cung, vũ là kim tinh khắc tham mộc. Mộc phùng chế hoá ắt hữu dụng nên trước tuy nghèo mà sau thành phú quí, lại hoặc ba phương có Xương Khúc Tả Hữu cũng chiếu quí. Hạn phùng Khoa, Quyền, Lộc thì qui hiển vậy.
53.-Tiên phú hậu bần, chỉ vì vận phùng Kiếp Sát.
- Như cung mệnh có một, hai chính diệu trước gặp được hạn tốt thì phú quí, sau đến trung niên hạn đến tuyệt địa lại gặp Kiếp Không Hao Sát hung tinh, thân mệnh vô lực nên sau bị nghèo hèn vậy.
54.- Xuất thế vinh hoa Quyền Lộc thủ tài quan chi vị.
- Sao Quyền Lộc cư cung tài bạch, hay quan lộc nhập miếu hội với nhiều cát tinh thì chủ vinh hoa phú quí thân mệnh được cách đó cũng vậy.
55.- Sinh lai bần tiện, Kiếp Không lâm tài phúc chi hương.
- Sao Địa Không, Địa Kiếp cư ở hai cung tài bạch và phúc đức chủ người bần tiện, ở cung thân mệnh cũng thế.
56.- Văn Xương Văn Khúc vi nhân đa học đa năng, Tả Phụ Hữu Bật bỉnh tính khắc khoan khắc hậu.
- Như cung Thìn Tuất, Tị Hợi, Mão Dậu an mệnh ngộ Xương Khúc là người bác học tài năng.
Được Xương Khúc toạ mệnh ở Cung Mùi gặp Dương Đà là tai ương, cho nên phải để tâm cẩn thận xem phép chế hoá, sinh khắc mà biến hoá thì lý đoán không thể sai được. Cũng như các chất hoá học, thêm thể ắt thành biến thể mà thể dùng khác nhau.
Như hai sao Tả Hữu cư thân mệnh, không cần các sao khác nhiều ít, là người khoan dung hậu trọng.
57.-Thiên Phủ, Thiên Tướng nãi vi y lộc chi thần, Vi sĩ vi quan định chủ hành thông chi triệu.
- Như an mệnh ở cung Sửu, có Phủ Tướng ở hai cung Tị Dậu lai chiếu, hay an mệnh ở Cung Mùi có phủ tướng ở hai cung Hợi, mão lai chiều; người sinh năm Giáp không bị sát hung tinh thì phú quí. Hạn đến - học trò đổ đạt, làm quan thì hanh thông.
58.- Miêu nhi bất tú khoa danh hãm ư hung thần.
- Giả như Hoá Khoa bị hãm trong cung có Không Kiếp Dương Đà, hoặc ở sao Thái Dương cư cung Tuất, hay Hoá Khoa ở Thái Âm tại cung Mão tuy có Khoa Quyền Lộc cũng không được toàn mỹ như cái mầm không được tươi tốt vậy.
59.- Phát bất chủ tài lộc, chủ thiều ư nhược địa.
- Như Hoá lộc ở hãm địa lại có Không Kiếp. Hoặc ở cung Tý Ngọ Thân Dậu Hoá lộc thành ra vô dụng lại chủ cô bần, không cứ có sao lộc là chủ giàu sang đâu, cần xem ở cung nào miếu vượng hay hãm địa.
60.- Thất Sát triều đẩu, tước lộc vinh sương.
- Như bốn cung Dần Thân Tị Ngọ an thân mệnh có Thất Sát toạ thủ lại thành tốt Quyền Lộc vinh hiển. Cũng cần có Tả Hữu Khôi Việt, Xương Khúc chiếu lên hay tương hợp thì nhất sinh phú quí vinh hoa, lại gặp hạn tốt lại càng tốt vậy. Nếu gặp sát tinh thì bị giảm nhiều.

Học Phong Thủy

Thứ Hai, 25 tháng 2, 2013

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI 2

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI


Học Phong Thủy

21.- Thái Dương cư Ngọ vị chi nhật lệ trung thiên.
     Hữu chuyên quyền chi vị, địch quốc chi phú.
Như thân mệnh ở cung Ngọ có Thái Dương toạ chủ, người sinh năm Canh Tân và sinh ban ngày thì quí đến thượng phẩm và phú gia địa quốc. Đàn bà gặp số này thì được vượng phu ích tử, phong tặng phu nhân.
22.- Thái Âm cư Tí hiệu viết: Thuỷ đăng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài.
- Thái Âm cư ở cung Tý như giọt nước trên nụ hoa quế, ắt được chức vụ trọng yếu thanh cao có tài trung trực can ngăn bề trên.
23.-Tử Vi Phụ Bật đồng cung, Nhất hô bá nặc.
- Sao Tử Vi và Phụ Bật cùng cư trú một cung, an ở thân mệnh là số phú quí, gọi một tiếng trăm kẻ thưa, chung thân tươi đẹp.
24.- Văn hao cư ư Dần Mão, chúng thuỷ chiều đông.
-Như thân mệnh cư cung Dần Mão, gặp Xương Khúc, Phá Quân lại có hình, sát sung phá là người hay kinh hãi. Hạn gặp được cát tinh thì bình thường, gặp hung tinh thì nguy khốn, chung thân tàn khổ phí công lao lực.
25.-Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu, hợp ám phúc tụ bất phạ hung nguy.
- Như thân mệnh có sao Nhật Nguyệt và hội cát tinh cũng không là toàn mỹ vì phùng hung tinh còn bị hung nhưng được tam hợp có Nhật Nguyệt chiếu và có cát tinh thì mới là thật tốt.
26.- Ấm phúc tại thân mệnh bất phạ tai ương.
- Ấm phúc là Thiên Lương Thiên Đồng cư cung thân mệnh phùng cát tinh thì không sợ tai ương hung hại, nhưng gặp hinh kỵ cũng vẫn bị như thường.
27.- Tham cư Hợi Tí danh vi phiếm thuỷ đào hoa.
-Như thân mệnh toạ cung Hợi Tý, gặp Tham Lang phùng cát tinh thì cátowN Nếu gặp Hình Kỵ ắt trai là hạng người lang thang phóng đãng, gái là hạng ca nhi dâm đãng.
28.- Hình ngộ Tham Lang hiệu viết phong lưu thái trượng.
- Như thân mệnh ờ cung Dần có Tham Lang ngộ Thiên Hình là người thông minh chủ phong lưu hay chưng diện bị gặp Hình ở nhàn cung thì thường.
29.- Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi.
- Như thân mệnh có sao Thất Sát, Liêm Trinh cùng toạ thủ là người chết đường.
30.- Phá Quân ám diệu đồng hương tác Trủng.
- Ám diệu là sao Hoá Kỵ, như thân mệnh có Phá Quân gia Kỵ, Hoa Sát thì chắc chết, hoặc ở cung thiên di cũng đoán như trên. 

Học Phong Thủy

31.- Lộc cư nô bộc túng hữu quan dã bôn trì.
- Như thân mệnh cung tinh bình thường, cung nô bộc ở cung Sửu Mùi ám họp cung quan, có sao Lộc Tồn lại có Quyền Lộc cát tinh thì đoán là có quan trước đẹp đẽ nhưng bị lao tâm khó nhọc bôn ba.

32.- Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
- Như Tử Vi (đế) thủ thân mệnh ngộ Quyền Lộc Hình Kỵ cùng một cung, tuy là cát không hung nhưng là người tâm bất chính.
33.- Đế toạ mệnh khố tắc viết kim dư phủ ngự liễn. Lâm quan đồng.Văn diệu hiệu vi y cẫm nặc Thiên Lương.
- Như sao Tử Vi thủ mệnh, cung đằng trước có cát tinh là như kim dư (xe nhà vua) phò vua tức là được quyền cao chức trọng. Hay sao Tử Vi lâm cung quan lộc cũng đoán như trên. Lại gặp thêm Xương, Khúc ví như áo gấm nặc hương thơm, tức là đã được quyền quí laị được tiếng làm đẹp đẽ vang lừng.
34.-Thái Dương hội Văn Xương ư quan lộc. Hoàng điện thủ ban chi quí.
- Như Thái Dương hội Văn xương miếu vượng ở cung quan lộc phùng cát tinh thì phú quí làm đến tể tướng.
35.- Thái Âm đồng Văn Khúc thê cung viết: Thiềm cung triết quế, văn chương lệnh thịnh.
- Như Thái Âm miếu vượng có Văn Khúc đồng ở cung thê, lại có cát tinh đến phù giúp. Hạn đến mà gặp thì trai lấy vợ đẹp khôn ngoan con nhà thế phiệt trăm anh, gái gặp được chồng thông minh quí hiển và được phong tặng.
36.- Lộc Tồn thủ ư diền, tài tắc mai kim tích ngọc.
- Như sao Lộc Tồn miêú vượng thủ hai cung điền tài thì chủ đại phú có vàng chôn ngọc cất.
37.- Tài ám hoạ ư thiên di, tất cự thương cao mại.
- Tài tinh tức sao Vũ Khúc, ám tức là Thiên Lương. Hoặc hai hay một sao đó được Quyền Lộc và cát tinh toạ cung thiên di là người buôn bán to lớn, nếu gặp Hình Kỵ Sát thì bình thường.
38.- Hao cư lộc vị, duyên đồ khất thực.
- Hao tức là đại, tiểu hao Phá Quân cũnh là hao tinh, lộc vị là cung quan lộc. Cung quan lộc có hao toạ thủ laị gặp Hình Kỵ là kẻ ăn mày. Người sinh Dần Ngọ tuất mệnh toạ cung Ngọ, người sinh năm tỵ dậu sữu mệnh toạ cung Ngọ, người sinh Tỵ Dậu Sửu mệnh toạ cung Dậu, người sinh năm Thân Tý Thìn mệnh toạ cung tí, người sinh năm Hợi Mão Mùi mệnh toạ cung Mão mùi mệnh toạ cung Mão thì đúng cách.
39.- Tham hội vượng cung, chung thân thử thiết.
- Như hao tinh, Tham Lang thủ thân mệnh, quan lộc ở vượng địa là người có quan lộc nhưng bần tiện lén lút, bị hư hao trộm cắp suốt đời.
40.-Sát cư Tuyệt địa, yểu niên tuyệt tự Nhan Hồi.
- Như mệnh an ở cung Dần Thân Tị Hợi có Thất Sát gia Hình Kỵ lại là chỗ tuyệt của sao khác, cho có cát tinh hội chiếu nữa hạn đến ắt chết non. Như Nhan-Hồi mệnh toạ cư Khôi Việt cư Dần. Thân phùng Quyền Lộc Xương Khúc hãm ư Thiên Thương thành không được phát đạt. Đại hạn đến sao Thất Sát hãm ở cung Hợi năm nhâm thìn tiểu hạn cư Dần cung mệnh Thái Tuế lưu Dương, lưu Đà cho nên chết vậy.

Học Phong Thủy

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI


QUYỂN II

CHÚ - GIẢI BÀI PHÚ THÁI – VI

Học Phong Thủy

1.-      Lộc phùng xung phá, Cát sử tàng hung.

G.N. Như Thân - mệnh cung phùng Lộc - Tồn, hoặc tam - hợp có Lộc, Địa - Kiếp bị kỵ đến phá chở lại thành hung triệu. Như hạn đến cung có Lộc -Tồn hay Hoá - Lộc và hung – tinh cùng hội cũng bị hung hại.
2.– Mã ngộ không vong, chung thân bôn tẩu.
- Như Sao Thiên – Mã gặp Tuần – không hay Triệt - lộ đóng ở cung Thân - mệnh thì cả đời bôn ba đây đó.
Người sinh năm Giáp, Triệt - lộ không vong ở giữa cung Thân Dậu, nếu an Mệnh tại cung Thân có Thiên Mã tức là cách Mã ngộ không vong chủ suốt đời bôn tẩu, nhưng gặp ở cung bại - địa thì trở lại phát vậy.
3.-     Sinh phùng Bại - địa, phát dã Hư hoa.
     ( coi Bảng Sao Tràng Sinh ở dưới đây)
-Giả như người Sinh Thổ, Thuỷ Mệnh an Mệnh ở cung Tị là Tuyệt - địa, Nhưng may được Kim sinh thuỷ lại Tị là thuỷ không bị tuyệt cũng như cái lý mẹ đến cứu con.
Nếu được Cát tinh chiều cũng, ám hợp cũng phát được nhưng cũng chỉ như đoá hoa mau tàn thôi vậy. Phàm Dần Thân Tị Hợi là Tứ- Tuyệt và cũng là Tứ - Sinh.
Hành Kim, Sinh tại Tị , Tuyệt tại Dần
__ Mộc __ __ Hợi __ __ Thân
__ Hoả __ __ Dần __ __ Hợi
__ Thuỷ Thổ __ __ Thân __ __ Tị.
4.- Tinh lâm miếu Vượng địa tái quan sinh khắc chi ư,
Mệnh sinh cường cung tế sát chế hoá chi lý.
-Nếu các sao được ở nơi miếu vượng thì nên xem sự sinh khắc, Mệnh an ở cung nào phải xem sự xung khắc chế hoá của cung đó.
Như người sinh thuộc Thuỷ Thổ Mệnh, Mộ khố ở cung Thìn ( xem bảng Tràng - Sinh) nếu cung tài Bạch – an ở cung đó thì gọi là Tài - khố, ( khố nghĩa là cái kho), hay Quan - Lộc an ở đó gọi là Quan - khố có sao Lộc - tồn toạ thủ gọi là Thiên - khố, nếu có Sát – Tinh đồng lâm thì gọi là Không - khố. Cung Thiên - Di an ở đó gọi là Kiếp - khố (Kiếp - khố có nghĩa là cái kho của kiếp người, tốt xấu tuỳ theo sao toạ thủ).
5.-      Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối.
     -Như Nhật tại cung Tuất - Dậu, Hợi, Tý, Sửu. Nguyệt tại cung Mão Thìn, Tị, Ngọ, Mùi đều gọi là phản bối (ngược lại). Vậy phải xem người sinh Thượng - huyền, Hạ - huyền, Nguyệt tại Thượng - huyền vọng Nhật thì tốt, Hạ - huyền mà Hói (Tối tăm) Nhật thì hung.
     Ngày 7, 8 là Thượng - huyền – 22, 23 là Hạ - huyền.Nếu Nhật Nguyệt đồng cung muốn luận rõ hoạ phúc của Nhật Nguyệt, thì phải lấy giờ sinh để luận Nhật và ngày tháng sinh để luận Nguyệt.      Ví dụ người sinh Mùi, ngày rằm tháng hai có Nhật Nguyệt cư Sửu thì luận Nhật tốt vì giờ Mùi tức là ban ngày mà Nhật cư Sửu, và Nguyệt thì ngày 15 là giữa tháng trăng tròn còn vọng Nhật nên luận Nguyệt cư Sửu còn được tốt vậy.
6.-      Lộc mã tối hỉ giao trì.
- Như người sinh năm Giáp lộc tại Dần cung và người sinh năm Thân Tí thìn thì Thiên mả cư Dần ngộ Lộc như vậy gọi là Lộc mã giao trì
7.-      Không vong định yếu đắc dụng, Thiên Không tối vi hệ yếu.
Xem Triệt - lộ không vong, Tuần không cần phải xem cho cẩn thận có chỗ dùng được, không phải bỏ vậy, đó là Thiên – không rất cần yếu, nó như cái thắng xe có sự nguy hiểm thì thắng bớt lại, hay xe tốt chạy mau ắt phải có cái thắng tốt thì mới không sợ sự nguy hiểm. Phải phân - biệt Ngũ – hành – không:
Như thân Mệnh duy chỉ gặp Kim không thì có tiếng tăm, Hoả không thì phát đạt: Hai hạn gặp được thì trái lại thành Phú - trạch.
Nếu là Thuỷ không thì sẽ bị tràn ngập, Mộc không ắt bị gẫy, Thổ không thì bị hãm, Hai hạn gặp lại thì là Hoạ bại.
VÍ dụ: Triệt ở cung Thìn - tỵ ở cung Thìn thì gọi là Thổ - không, ở cung Tị thì gọi là Hoả - không.
8.-      Nhược phùng bại địa, chuyên khán phù trì chi diệu đại hữu kỳ công.
- Như Mệnh ở cung Bại Tuyệt có Tuần, Triệt không lại nhờ có các Sao tốt như Lộc Tồn, Hoá - lộc phù trì thì trái lại thành tốt đẹp vô cùng.
9.-      Tử - vi, Thiên - phủ toàn y Phụ - bật chi công.
- Như Thân Mệnh ngộ Tử - Phủ lại được Phụ Bật thủ chiếu thì suốt đời giàu sang.
 

Học Phong Thủy

10.- Thất Sát Phá – Quân chuyên y Dương Linh chi ngược.
- Hai sao Phá Sát ở nơi hãm địa rất ác, sự ảnh hưởng hung tàn bạo ngược như Kình – Dương như Linh – Tinh nhưng nếu Thân Mệnh ngộ Thất Sát và Phá – Quân lại hội với Dương Linh thủ chiếu mới có thể chế ngự được.
11.- Chư Tinh Cát phùng Hung dã Cát
Chư tinh hung phùng Cát dã hung.
- Như Ba phương, Thân Mệnh có nhiều cát tinh thì xấu. Nhưng phải xem Cát, Hung tinh đắc, thất, vượng hãm và sinh khắc chế hoá ra sao rồi mới định được hoạ phúc.
12.- Phụ Bật Giáp Đế vi Thượng phẩm
Đào Hoa phạm Chủ vi chí dâm.
- Sao Tham – lang cùng gọi là Đào – hoa, Đế và Chủ là chỉ sao Tử Vi.
Như Thân Mệnh có Tử Vi và Tham – Lang đồng cung tức là Đào hoa phạm chủ, là nam nữ tà dâm, gian trá sảo ngôn lệnh sắc sau cũng tỉnh ngộ được; nếu lại được Phụ Bật giáp Tử Tham lại là Đại Quí làm quan đến thượng phẩm, nếu bị thụ chế thì không được như vậy.

13.- Quân Thần Khánh Hội tài Thiện Kinh Bang.
- Như Tử Vi thủ Mệnh, được Thiên Phủ, Thiên Tướng Xương Khúc đồng lâm, được Thiên đồng, Thiên Lương tương chợ (giáp Tử Vi) thế là cách Quân Thần Khánh hội ắt đại phú qúy. Nếu gặp Kim Tinh và Hình Kỵ, bốn sao đồng độ thì gọi là Cách Phản bội, là tớ khi Thầy, Tội giết Vua trở thành hoạ loạn, cần phải suy cho kỹ. Như mệnh của An - Lộc – Sơn có Tử Phủ gia hội Song Lộc triều Viên, Tả Hữu Củng chiếu cho nên Phú quí nhưng chỉ hiềm có Tử Phá cư ở cung Thìn Tuất và lại có Linh Tinh đồng vị ở cung Dần hợp chiếu có Hoá Kỵ và chủ Thần bất trung, sau bị hung vong.
14.- Khôi Việt đồng hành vị cư Thai phụ,
     Lộc Văn cung Mệnh quí nhi Thả Phú.
- Như Thân Mệnh có Khôi, Việt Tức là toạ quí hưởng quí, vị đến Tam công, lại có Quyền Lộc Xương Khúc cát diệu chiếu lại thì được phú quí. Nếu bị Hinh Kỵ tương xung thì giảm đi nhiều, còn có khi bị trắc trở hung hại.
15.-Nhật Nguyệt giáp Mệnh, Giáp tài gia Cát diệu, bất Quyền tắc Phú.
( Nếu gặp Dương Đà xung thủ thì không phải)
Nhật Nguyệt giáp mệnh hay tài bạch có cát diệu củng chiếu thì không là người quyền quí thì giàu có.
16.- Mã đầu đới kiếm, chấn ngự biên cương.
Mã đầu đới kiếm nghĩa là an mệnh ở cung Ngọ (Mã) có Kình Dương (cái kiếm) ngộ Thiên Mã, Tham Lang. Người sinh năm Bính tuất mà gặp là cách rất tốt. Được cách này thì có uy quyền chấn ngự ở biên thuỳ, làm về võ cách. Lấy Kình Dương cư Ngọ an mệnh mà luận được phú quí nhưng không bền.
Cách này phần nhiều là của quan võ ra trận, uy phong lẫm liệt thật, nhưng chơi dao có ngày đứt tay là lẽ đó vậy.
17.- Hình Tù giáp Ấn, Hình trượng duy ti.
Dương Nhận là Sao Hình
   Liêm Trinh là thiên tù
   Thiên Tướng là cái ấn
Như thân mệnh có Thiên Tướng có Liêm Trinh và Dương Nhận Giáp thì chủ người về việc quan mà phải thụ hình trượng chung thân không bao giờ được phát đạt.
18.- Thiện Ấm triều cương, Nhân từ chi trưởng.
Như thân mệnh cư ở cung Thìn Tuất, có sao Cơ Lương (thiện, ấm) toạ thủ hay chiếu lại, có cát tinh tương trợ là người nhân từ nhất là phú quí, nếu có Hình Kỵ Hao Sát thì chỉ nên đi tu.
19.- Quí nhập quí hương, phùng giả hoạch lộc.
Như thân mệnh có sao Khôi, Việt toạ thủ ở Tý Ngọ gia cát tinh Quyền Lộc lại chiếu thì phú quí, hạn gặp thì phát phúc.
20.- Tài cư tài vị, ngộ giả phú xa.
Tài tinh là: Thiên Phủ, Vũ Khúc, tài vị là cung tài bạch.
Như Tử Vi, Thiên Phủ Vũ Khúc cư cung tài bạch lại có Quyền Lộc hay Lộc Tồn tất chủ giàu có lớn lao, hạn gặp thì chủ đại phát tài.

Học Phong Thủy

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

TỬ VI ĐẨU SỐ - Tác Giả: Nguyễn Mạnh Bảo


Học Phong Thủy

THIÊN MỆNH - SỐ MỆNH
HAY LÀ SỰ KẾT TỤ CỦA TIỀN KIẾP


Người ta khi càng khôn lớn, đời mình đã được những Hỉ Nộ, Ai lạc, Hoạ Phúc, Phú Bần, Thăng Trầm rèn luyện lúc đó ta mới thấy chung quanh ta có những cái gí vô hình mà linh-thiêng ảnh hưởng trực -tiếp đến ta bằng những Luật của Tạo –Hoá.
     Một khi đã thông hiểu được một Luật nào ta cảm thấy ta được tự do sung sướng tuy là thoạt trông thấy ta tưởng nó cản ngăn được sự Động –tác của ta. Một sự động tác của người chỉ là sự kết -thúc của những Năng -lực tiềm –tàng trong Nội-giới bằng tư -tưởng và cảm- tưởng thôi, mà nội-giới là nơi trên dưới phân mình, dưới những Hệ-thống rõ ràng.
     Cái Hệ-thống về Kiếp người hay là những Tiền oan Nghiệp chướng, kết -tấu lại thành con Người vô hình mà người ta gọi là Số Mệnh mà khoa Tử-Vi Đẩu-Số giúp ta biết được cái số` kiếp của ta, thoát lên trên những Tai-ương hay Hạnh-phúc, để ra được cảnh địa-võng thiên-la, trên cuộc bể dâu thống -khổ.
     Khoa-học hiện tại đã dạy ta quen theo cái lý tưởng chung là ở trong Vũ-Trụ có một sức mạnh tiềm-tàng gọi là Năng-lực (Energie).Đã cho rằng Điện-Tử là một kho năng-lực thì một Ngôi Sao ắt là một kho vô cùng tận năng-lực vậy. Cái năng-lực đó biến động vô cùng vì những biến chuyển thành khí nóng hay Điên-lực, hay Điện -lực thành Từ-lực và cứ thế mãi từ biến chuyển này đến biến chuyển khác.
     Người ta cũng là một kho năng-lực(Réservoir d’énergie). Ta ăn uống để tồn tại năng-lực để biến thành Cử-động. Một tấm lòng Thiện là cái năng lực của ta thiện, một ý nghĩ Ác là cái Năng - lực của ta hung ác. Suốt đời Người, nội - giới ta chỉ là cái máy Biến thể ( Transformateur) nhận cái Năng - lực. Vũ - Trụ ảnh hưởng đến ta mà thi hành ra ngoại giới thành những Thiện – Ác. Cái Luận Tiền - Kiếp chỉ là một đầu để liên lạc từ Nhân đến Quả, khi mà người ta biến chuyển năng -lực ấy. Theo Luật trên, không những ta chỉ coi thấy những biến chuyển hữu hình trong Vũ - Trụ hiện tại theo Khoa - học đâu, ta còn phải kể những Tư - tưởng của ta, những cảm tưởng của ta, mỗi cơ thể làm biến đổi vị - trí ta đối với Vũ - trụ hay vị - trí Vũ -trụ đối với ta được. Đó là “Đức năng thắng Số” của Thánh - hiền mà tôi thường nói đến, lấy lý - thuyết hiển – nhiên để giải cho rõ vậy.
      Khi ta muốn hiểu Tiền - kiếp là cái gì ? Thì cái nguyên tắc đầu tiên cho ta cảm thấy là ta bị ảnh hưởng trực tiếp cái Năng - lực và cái Quả của nó. Cái Năng - lực ấy trong cõi Ta – BÀ, Trầm luôn bể khổ, hay trong Trung - giới của Cảm - tưởng, hay trong Thượng - giới của tư tưởng. Ba thứ Năng - lực ấy hiển hiện được là ở ta. Hạng trên là ở sự Hành - động các Cơ - Thể ta, hạng thứ là ở Cảm - tưởng của ta trong trung giới, hạng sau là ở tư - tưởng trong thượng giới. Nếu ta cứ mặc nó cứ tự động, nào như những cái này, tính cái kia, ăn ăn, nói nói, mơ mơ, mộng mộng, làm làm, lụng lụng đó chỉ là để làm Thực - hiện ba thứ năng – lực trên, có khi ta giúp nó để thực hiện có khi lại nghịch lại.
     Cái năng - lực mà ta thường dùng tất cả chỉ là cái Năng - lực Vũ - trụ mà ta chỉ là cái máy biến thể thôi. Cái Nguyện Vọng của Thiên – lý ắt muốn cho ta dùng cái năng - lực ấy trên cõi Tiến – hoá. Vì lẽ ấy lấy Đức - Hoà mà thi hành Đại - Đạo là Thiện mà lấy Tài – Hoá ngược lại với Đại - Đạo là Hung và Ác.
     Người ta đâu phải chỉ sống trơ trọi một mình, chỗ nào cũng hàng triệu người chung quanh ta, một tiếng nói, một tư tưởng, một cảm tưởng của một người đều ảnh hưởng đến ta, mà ta như cái máy thâu thanh, thâu hình có đủ năng - lực nhận biết được cái năng - lực thiêng liêng và vô hình, cho nên Thánh – nhân nói rằng: “Người Quân tử ở chỗ không người, lúc nào cũng sửa mình như trong đám đông. Lúc nào cũng như có hàng 10 ngón tay chỉ vào mình, hàng 10 mắt trong vào mình. Nghiêm nghị lắm thay mà kẻ tiểu nhân thì nhàn cư vi bất Thiện”. Khi một người phát triển cái năng - lực mình là Thiện hay Ác ắt có kết – quả tốt hay xấu mà khoa Tử - Vi là một khoa Tượng Số - Học dùng để đo số con Người.

Học Phong Thủy


Mỗi một người hiện tại trong chúng ta đều đã sống trong một Dĩ-vãng nhiều kiếp, khi ta xuống trần trở lại xác phàm thì ta phải mang theo cả cuốn phim Tiền - kiếp trong đó có cả Thiện lẫn Ác. Trên tôi đã giải cái Tiền - kiếp ấy là do ở nhiều Năng - lực hợp thành và ảnh hưởng mà dưới đây tôi tượng hình bằng một người đứng ở giữa, một trung tâm phát động Thiên, Ác, Cát Hung mà nó đã tạo ra.
Coi hình trên ta thấy ảnh hưởng Bần và Tiện – tinh nhiều gấp ba lần Phú và Quí tinh. Như ắt là người bần tiện đau khổ, buồn rầu.
Nếu ta ngắm chung quanh ta đời của mọi người, có người sang kẻ hèn, người giàu kẻ nghèo, người vui kẻ buồn qua trước mắt ta. Cuồn cuộn như nước thuỷ triều, ngày này qua ngày khác cứ thế mãi mãi không ngừng.
Nếu bắt đầu từ khi sinh ra tất cà cái Năng - lực Tiền - kiếp con Người Cát cũng như Hung đều đã ấn định, như ví dụ trên thì đời người này bị ba phần hung một phần cát, tuy vậy ai cũng có nhiệm vụ ở đời để thắng những sự đau thương u - buồn, sống để vật lộn để chiến thắng, hầu thêm vào Số Năng - lực Thiện để cạo gọt dần dần cái Hung Ác ám đen đi, để bồi đắp thêm cho tâm - hồn được trong sạch thanh cao hơn. Đó là một bước tiến trên con đường Tiến - Bộ của Kiếp mình.
Đây tôi lấy một hình tròn tượng trưng cho số Mệnh một người hay là cả các năng - lực trong Tiền - kiếp của người đó.
Hình tròn phân ra một bên trắng là Thiện là Cát, hình đen là Ác là Hung. Ví dụ số Kiếp người đó là số 100. Phần a c b e là 40 phần tốt và a đ b c là 60 phần xấu. Theo Ấn - Độ Tiền kiếp củ con người gọi là KarmaSanchita (Toàn - Kiếp).
Và theo số lấy ở hình người trên ta thấy được cái số tốt xấu rõ ràng theo ảnh hưởng của Sao tượng trưng các ảnh hưởng tốt và xấu ở trong khoa Tử - Vi vậy.
Đó là Thiên - Mệnh. Mỗi người đều có số Mệnh riêng của mình. Cái Thiên - Mệnh ( Destin) đó là một số Cát Hung của Tiền - kiếp đã định cho mình. Như cha mẹ, Phúc - đức, Nhà - cửa, Quan - lộc, Tôi – tớ, Xuất - Ngoại, Tất - bịnh, Tiền – tài, Con – cái, Vợ - chồng, Anh – em, người hợp, kẻ nghịch, sự Hung Ác hay Phúc - thiện Tử - vong gặp trong đời đều Kết - hợp lại thành số mệnh từng người một.
Cũng có người có một Tiền - kiếp từ xa xăm lại, có những dây Tiền oan nghiệp trướng, duyên nợ với các người khác ở các kiếp trước nên phải trở lại cùng chung với những người đó để trả ơn đáp nghĩa, gỡ duyên trả nợ. Nhưng đằng khác, thân xác nó chỉ là một trong những cõi đời đến chung kết phải là một người trả được nợ, gỡ được duyên, thoát được những dây xiềng xích kiếp trước hầu đến chỗ Chí Tri, Chí thiện đến cái nguyên-hình (archétype) lý - tưởng.
vậy những sự hành động của con người một phần lớn tuỳ theo thân xác (Thân trong số) vì lẽ đó cha mẹ, nòi giống lại là một sự tối cần thiết. hiện tại ta coi nòi giống theo những yếu tố di truyền (Facteurs mendéliens do thuyết của Ông Gregoire Mendel) của các cơ - thể trong những tế bào sơ khởi trong bào thai của cha mẹ. nên Luật Tiền - kiếp phải lựa những yếu tố hợp với cơ thể cần dùng trong kiếp.
Đến đây ta phải quay về những hiện trạng xảy ra trong hai cõi, cõi vô hình và cõi hữu hình. Trong cõi hữu hình, tức là ngoại giới ta thấy con người hình chất làm bằng nhiều thứ; đối với ta có cái hợp cái xung. Có người sinh ra thì đẹp đẽ tráng kiện, đã đui mù, ám tật, có người sinh ra tai thính về âm nhạc, lại có kẻ cả điếc lẫn câm.

Mỗi một người hiện tại trong chúng ta đều đã sống trong một Dĩ-vãng nhiều kiếp, khi ta xuống trần trở lại xác phàm thì ta phải mang theo cả cuốn phim Tiền - kiếp trong đó có cả Thiện lẫn Ác. Trên tôi đã giải cái Tiền - kiếp ấy là do ở nhiều Năng - lực hợp thành và ảnh hưởng mà dưới đây tôi tượng hình bằng một người đứng ở giữa, một trung tâm phát động Thiên, Ác, Cát Hung mà nó đã tạo ra.
Coi hình trên ta thấy ảnh hưởng Bần và Tiện – tinh nhiều gấp ba lần Phú và Quí tinh. Như ắt là người bần tiện đau khổ, buồn rầu.
Nếu ta ngắm chung quanh ta đời của mọi người, có người sang kẻ hèn, người giàu kẻ nghèo, người vui kẻ buồn qua trước mắt ta. Cuồn cuộn như nước thuỷ triều, ngày này qua ngày khác cứ thế mãi mãi không ngừng.
Nếu bắt đầu từ khi sinh ra tất cà cái Năng - lực Tiền - kiếp con Người Cát cũng như Hung đều đã ấn định, như ví dụ trên thì đời người này bị ba phần hung một phần cát, tuy vậy ai cũng có nhiệm vụ ở đời để thắng những sự đau thương u - buồn, sống để vật lộn để chiến thắng, hầu thêm vào Số Năng - lực Thiện để cạo gọt dần dần cái Hung Ác ám đen đi, để bồi đắp thêm cho tâm - hồn được trong sạch thanh cao hơn. Đó là một bước tiến trên con đường Tiến - Bộ của Kiếp mình.
Đây tôi lấy một hình tròn tượng trưng cho số Mệnh một người hay là cả các năng - lực trong Tiền - kiếp của người đó.
Hình tròn phân ra một bên trắng là Thiện là Cát, hình đen là Ác là Hung. Ví dụ số Kiếp người đó là số 100. Phần a c b e là 40 phần tốt và a đ b c là 60 phần xấu. Theo Ấn - Độ Tiền kiếp củ con người gọi là KarmaSanchita (Toàn - Kiếp).
Và theo số lấy ở hình người trên ta thấy được cái số tốt xấu rõ ràng theo ảnh hưởng của Sao tượng trưng các ảnh hưởng tốt và xấu ở trong khoa Tử - Vi vậy.
Đó là Thiên - Mệnh. Mỗi người đều có số Mệnh riêng của mình. Cái Thiên - Mệnh ( Destin) đó là một số Cát Hung của Tiền - kiếp đã định cho mình. Như cha mẹ, Phúc - đức, Nhà - cửa, Quan - lộc, Tôi – tớ, Xuất - Ngoại, Tất - bịnh, Tiền – tài, Con – cái, Vợ - chồng, Anh – em, người hợp, kẻ nghịch, sự Hung Ác hay Phúc - thiện Tử - vong gặp trong đời đều Kết - hợp lại thành số mệnh từng người một.
Cũng có người có một Tiền - kiếp từ xa xăm lại, có những dây Tiền oan nghiệp trướng, duyên nợ với các người khác ở các kiếp trước nên phải trở lại cùng chung với những người đó để trả ơn đáp nghĩa, gỡ duyên trả nợ. Nhưng đằng khác, thân xác nó chỉ là một trong những cõi đời đến chung kết phải là một người trả được nợ, gỡ được duyên, thoát được những dây xiềng xích kiếp trước hầu đến chỗ Chí Tri, Chí thiện đến cái nguyên-hình (archétype) lý - tưởng.
vậy những sự hành động của con người một phần lớn tuỳ theo thân xác (Thân trong số) vì lẽ đó cha mẹ, nòi giống lại là một sự tối cần thiết. hiện tại ta coi nòi giống theo những yếu tố di truyền (Facteurs mendéliens do thuyết của Ông Gregoire Mendel) của các cơ - thể trong những tế bào sơ khởi trong bào thai của cha mẹ. nên Luật Tiền - kiếp phải lựa những yếu tố hợp với cơ thể cần dùng trong kiếp.
Đến đây ta phải quay về những hiện trạng xảy ra trong hai cõi, cõi vô hình và cõi hữu hình. Trong cõi hữu hình, tức là ngoại giới ta thấy con người hình chất làm bằng nhiều thứ; đối với ta có cái hợp cái xung. Có người sinh ra thì đẹp đẽ tráng kiện, đã đui mù, ám tật, có người sinh ra tai thính về âm nhạc, lại có kẻ cả điếc lẫn câm.
Ví dụ như trong một gia đình có di truyền thông manh có bốn con, đứa đầu trông được thường còn ba đứa kia bị chứng thong manh. Sao vậy?
Muốn cho hiểu rõ thiên mệnh (destin), ta phải quay về với cõi đời. Có ba yếu tố:
Yếu tố thứ nhất là phải nhận xét người ta có một Bản Ngã riêng biệt theo một vòng tròn bất diệt trong cõi Thiêng Liêng: “ Nó đã sinh ra từ lâu, lâu lắm và ngay đây, thật ra nó mới nhập trong bào thai.” Nó đã sống trong cõi Thế trong nhiều Kiếp, đã suy nghĩ tác động Thiện và Ác, huy động những năng - lực có ích hay nguy hại cho nó cũng như mọi người xung quanh. Nó sống có liên lạc với nhau và không được Tự- Do, sống qua các thế- hệ để thực hiện một Lý - Tưởng, đó là Hiện - Nguyên hình nó. Đến như các thứ cây cối, các muôn thú đều có Nguyên – hình riêng của nó, vì vậy Hồn người cũng có Nguyên – hình. Người thì muốn thành Phật, thành Tiên, thành Thánh, người thì cặm cụi đi tìm chân – lý giáo hoá chúng sanh, người thì muốn làm bà chủ trong Thiên - Hạ,
Là Nghệ-Sỉ, Thông-Thái, hoạt động hay mơ mộng nhất nhất đều có một Nguyên-hình lý tưởng trước mặt, nên phải tìm cách làm việc tìm tòi, học hỏi cho đến chí Tri, kiếm cách để vượt qua những khó khăn cản trở công việc ta vậy.
Yếu tố thứ hai: sau khi đã thành cái Tế Bào đầu tiên của Bào Thai (zygole) các Thần Định Mệnh lựa những Yếu tố biết rằng cái bản ngã của nó chưa có thể huy-động được. Ví dụ như nếu cái đời của nó sẽ là Nhạc-Sĩ thì Thần Định Mệnh cho những yếu -tố căn bản của Nhạc –Sĩ như phải có bộ Thần-Kinh-Hệ rất tinh vi hay rất thính mà Thần-Định-Mệnh đã lựa cho để con Người có thể đi đến Nguyên –Hình Lý -Tưởng của nó.Hoạ phúc, Tai ương, Hạnh phúc, may mắn, rủi ro, vui cười , buồn tủi đó chỉ là những viên gạch mà cái Bản-Ngã của con Người đã tạo ra để xây cái nhà tạm của nó.

Yếu -tố thứ 3: Thần Định Mệnh Không thêm không bớt, chỉ chế những năng lực sẵn có của Tâm hồn hầu để đến cái Thiên-Mệnh đã hoạch định, cái Nguyên-Hình lý-tưởng mà con Người phải trải qua sự Sinh- Hoá , Tử Vong đời đời kiếp kiếp.
Trên tôi đã nói “Đức năng thắng số” vậy ta không nên tưởng ta không thể đổi được Số Mệnh mình đâu, nhiều hành vi Phúc -đức theo Nghị-lực mình có thể cải được Hoạ ra Phúc, Yểu ra Thọ như truyện Lý-phùng –Xuân trong sách này.
Vấn -đề Thiên -Mệnh , Số -Mệnh, Tiền -Kiếp giải sơ qua trên đây để các bạn rõ vài nguyên tắc chắc-chắn mà tiến trong Lý-Học hầu tàn.Muốn cho hiểu Tiền Kiếp con Người một cách rõ rệt hoàn toàn ắt chỉ có những bậc Đại-Quang-Minh thoát phàm nhập Thánh, soi rõ hết muôn sự vật trong Vũ-Trụ nhưng biết những nguyên-tắc căn bản của Kiếp người trên đây cung đủ cho ta một năng-lực xáo trộn từ trên xuống dưới để đưa ta lên trên một Trình -Độ Cao Siêu.
Trong quyển 1 tôi đã gắng công Toán-Pháp-Hoá cả một Khoa-Học tối cổ huyền bí hầu như mờ ám nhưng nhiều bạn cho như vậy lại làm rối Trí Học- Giả thôi.
Thiển ý tôi nghỉ ra vậy là cốt có thể Âu –Hoá một Văn-Hoá Đông –Phương, trình bày và giải thích theo Toán Pháp hầu mau hiểu hơn và cốt để nhắc nhở các Bác-Học và Thông -Thái Tây-Phương rằng:
“Các cụ ơi! Cặm cụi tìm kiếm làm gì cái vô tuyến vũ - trụ (rayons cosmiques)có thể thắm nhuần vào bất cứ việc gì trong Vũ - trụ. Những Điện – ba ấy nó có từ khi có Vũ - trụ mà Trần – Hi – Di đã cảm thông được”. Chưa ai diễn tả ra, nên tòi tìm kiếm diễn tả ra trên giấy trắng mực đen những đường Điện – ba các vì Tinh – tú (ondesnstralea) có ảnh hưởng trực tiếp đến Nhân - loại và Vạn - vật hầu để Học - giả cùng nghiên cứu đến sự nhận xét tuyệt đối của những Điện - lực Vũ - trụ vô hình ảnh hưởng đến chúng ta và muôn sự vật. Càng bước sâu vào Lý - Học ta càng thấy cái Đài Vinh – Quang lộng lẫy uy nghiêm vô biên vô giới mà cái Học để Hiểu Biết con Người được sáng tỏ vậy.
Tôi ước mong rằng cái công phu sưu tầm của Tôi có thể giúp ích cho Học - giả trong muôn một.

                                       Học Phong Thủy