Học Phong Thủy
544.- Cốt yếu của Mệnh-Số
- Xem Thân Mệnh Lộc-Mã không bị lạc vào Không vong, Thiên-không, thứ nhì là lạc vào Tuần-không, rất nguy là lạc vào Triệt-không.
Trước hết phải xem cung Mệnh những sao tọa thủ cát hung, miếu vượng hay lạc hãm, Kỵ-Sát sinh khắc thế nào? Sau đến cung Thân cũng xem như cung Mệnh ở trên.
Thứ ba xem đến những cung xung hợp Mệnh là Thiên-di, Tài-Bạch, Quan-Lộc ba phương chiếu lại, hình xung khắc hại thế nào?
Thứ tư xem đến Phúc đức, các sao Quyền-Lộc, Kiếp-Không miếu hãm thế nào? Lấy cung Tài-Bạch đối chiếu cung Phúc-Đức thế nào?
Sáu cung: Thân, Mệnh, Thiên-di, Tài, Quan, Phúc là sáu cung cần thiết nếu được nhập Miếu tụ đựơc Cát tinh thì hóa Cát, được phú quí vinh hiển cao Thọ, nếu 6 cung ở vào hãm địa và có hung tinh hội lại Kỵ khắc thì yểu-triết, cô-bần, nếu người sinh giờ Mão Dậu thì Xuất-ngoại tốt hơn.
Cung Điền-Trạch theo sau có cùng Tật-nguy (Giải-ách) và cung Phụ-Mẫu, Thê, Tử ba cung sau đều có Kiếp Không Sát Kỵ là Mệnh số người đi tu, nếu không thế thì bị cô độc bần cùng.
Nếu Mệnh vô Chính-diệu nhưng được cung Tài, Quan có Cát tinh cũng chiếu thì cũng được Phú quí song toàn hoặc là con Thứ mẫu sinh ra, nếu ba phương có hung tinh chiếu thì phải mang hai họ mới sống lâu, ly tổ Xuất ngoại có thể thành cơ-nghiệp.
Như cung Mệnh có chính-diệu, có Cát tinh mếu vượng, có Tam-Hóa 3 phương có Cát tinh hội hợp là Thượng Thượng Chi Mệnh.
Như Mệnh vô chính-diệu, ba phương có Cát tinh chiếu lại là Thượng Thứ Chi Mệnh.
Như Mệnh có sao không Cát không hung, hoặc Cát Hung tinh bằng nhau, như ba phương cũng chỉ có sao Trung bình chiếu lại là Trung-cách.
Cung Mệnh tuy Sao đựơc nhập miếu vượng địa, nhưng ba phương chiếu lại có Ác tinh thủ chiếu là Phá cách.
Cung Mệnh có sao bị lạc hãm, phản hội gia Dương Đà Kiếp Kỵ, thì được Lộc Tồn và Hóa Cát chiếu lại cũng là Trung Đẳng Chi Mệnh.
Nếu Mệnh không có Cát tinh lại bị phản chiếu như hung sát Kỵ không có Lộc lại lạc hãm là Hạ Đẳng Chi Mệnh, nhưng ba phương có Cát tinh chiếu lại thì có thể vào hàng Trung-đẳng trước nhỏ sau to, cũng không được lâu rồi sau cũng bị thành bại yểu-triết.
Nếu an Mệnh ở vào cung hãm địa gia hung sát Kỵ ba phương lại hội với Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là Hạ-cách, bần-tiện mang hai họ thì sống lâu là Nô-bộc chi Mệnh, nếu không phải thì chết non hay Lục-súc Chi Mệnh.
545.- Luận Mệnh nhập Cách
1. Như Mệnh nhập Cách (coi những cách ở trên) miếu vượng, tụ hội các Sao Tốt như Khoa Quyền Lộc là Thượng Thượng Chi Mệnh.
2. Không nhập miếu gia Cát hóa Khoa Quyền Lộc là Thựơng Thứ Chi Mệnh.
3. Không nhập miếu, không gia Cát tinh là Bình Thường Chi Mệnh, Nhập miếu không gia Cát tinh là Bình Đẳng Chi Mệnh.
4. Nếu cư hãm địa lại gia Sát Kỵ là Hạ Đẳng Chi Mệnh, không phải là cứ lấy sự Nhập Cách mà luận, Nhập cách mà không hóa Cát lại hóa Hung lại là vô ích, vậy chỉ lấy Bản Mệnh Cát Hung tinh nhiều ít mà đoán.
546.- Luận Cách của Tinh Số cao Hạ
Tinh là sao miếu hay lạc hãm. Số là Mệnh số đã luận ở số 544 Sao Tử-Phủ và số tương hợp thế nào?
Ta phải hiểu thấu hết các cách cục, các Tinh và Số để có thể hòa với nhau mà quyết đoán đến cùng kỳ lý thì háo ly cũng chẳng sai một mãy.
Biết rằng: Tử-Vi là sao Nam-Bắc-Đẩu là Chủ các hàng Tinh-tú trong vũ trụ, mà Thiên-Phủ làm chủ các sao Nam-Đẩu, lại có Âm Dương hoà đều nhau, cân đối để lấy sự quân-bình mới có sự tương sinh, nếu Âm Dương không đều hòa lẫn nhau thì số không có sự tương Sinh tương Hợp ắt là Hạ cách. Âm Dương thuần một thứ là Trung cách. Ba phương tứ chính đều có Cát tinh là Thượng cách. Cát hung tinh đều nhau là Trung cách. Cát tinh mà gặp Ác sát là Hạ cách, là gặp bọn côn đồ.
Thương – Phàm Tinh sao được Thượng cách mà số lại được Thượng Cách là Bậc Nhất, là số của hàng Chủ-Tể một nước, là số những bậc Hoàng-Đế, bậc Tổng thống, Quốc vương.
- Phàm tinh được Thượng cách mà số được Trung cách là Hạng Nhì vị đến Tam Công. (Đại thần, Tứ trụ, Tể tướng).
- Tinh được thượng cách mà số là Hạ cách là hàng Thứ Ba vị đến Lục-Khanh (Thượng-Thư, Tổng-trưởng) đều là Thượng cách hay Thượng Thọ Chi Nhân.
Trung – Tinh Sao được Trung cách mà số thượng cách là Thứ Tư làm đến Giám-Ty (Giám đốc Công sở)
- Tinh Trung, Số Trung là Thứ Năm làm đến huyện lệnh.
- Tinh Trung, Số hạ cách là Thứ Sáu là số các người theo con đường khác lạ mà đến bực Quí Hiển đều liệt vào hạng Trung đẳng hay Hưởng Phúc Chi Nhân.
Hạ - Tinh hạ cách mà Số được Thượng Cách là Thứ Bảy được Y Lộc phong túc giàu có như Đào-Công tác nghiệp con cháu phồn-thịnh, sống lâu. Tuy Tinh Sao là hung nhưng vẫn nhập cách hợp cục mới được như trên đoán, nếu không thì hư danh hư lợi.
- Tinh hạ Số Trung là Thứ Tám hạng người Y Lộc lúc nào cũng đủ.
- Tinh hạ số hạ là Thứ Chín là người bôn tẩu bần cùng yểu-triết.
Thượng, Trung, Hạ ba hạng trên đây cứ y theo cái lý trên mà đoán thì người hàng Thuợng đẳng có thể biết được cái nguyên giống của Tổ-Tông (Vì mình là cái Quả mà Tổ-Tông là nhân) mà người Hạ đẳng có thể biết được sự vương-thịnh của con cháu về sau (vì Hạ cách ắt phải động, làm lụng cực nhọc, đó là cái nhân mà con người gieo ra để được Quả Trái về sau tức là con cháu vậy).
Đó là huyền-linh ảo-diệu cơ-vi của con người trong vòng Nhân-Quả, thịnh suy của Thiên-Lý.
Học Phong Thủy
547.- Luận- Số Mệnh đàn ông và đàn bà, tinh Số có những ảnh hưởng khác nhau.
Nam Mệnh trước phải xem cung Thân, Mệnh đến cung Tài Quan, Thiên-Di, nếu được Miếu vượng thì tốt, bại hãm lại tụ hợp các hung tinh là hung. Thứ ba xem đến cung Phúc-Đức Quyền-Lộc, Kiếp, Không miếu hãm cát kỵ. Rồi xem đến Điền-Trạch, Thê-Thiếp, Tật-bịnh cát hung thế nào để đoán sau. Lại xem cung Phụ-Mẫu, Thê, Tử ba cung nếu có Kiếp Không Sát Kỵ lạc hãm là Tăng-Đạo chi Mệnh, không phải thì bần cùng cô quả.
Phải xem xét cân nhắc cho tường tận ắt có thể biết được họa phúc vinh nhục của Người.
Nữ Mệnh trước phải xem Thân Mệnh Cát Hung như gặp Tham Sát, Kinh thì không tốt. Sau xem đến cung Phúc đức các hung ra sao nếu gặp Thất-Sát một mình cư cung Phúc-đức tất chỉ làm Nô tỳ, Ca kỹ. Thứ ba xem đến cung Phu, sau đến Tử-tức, Tài-trạch nếu có Đào-hoa Hình Sát thì bị bại tuyệt không tốt; nếu được sao tốt đắc miếu vượng thì tốt.
Luận số đàn bà cung Phu và Mệnh có quí cách, thì tốt lắm nếu ngược lại là vô dụng.
Lấy ba cung: Phu, Phúc, Tử-tức là chính cường.
Cung Điền, Tài là thứ cường. Cung Quan, Thiên, Tật-Ngụy, Nô-Bộc là Nhược cung.
548.- Luận Tiểu-Nhi Mệnh
- Có Bác sĩ, Lực Sĩ cư Mệnh thì trên ngắn dưới dày, có Thanh-long, Tướng-quân là tai nhỏ đầu tròn, có Đại-hao là mũi hếch, môi mỏng; có Tử-Phù, Bịnh-Phù thì tiếng lớn tính hùng mạnh; có Quan-Phù, Tấu-thư phùng ác diệu lạc hãm địa thì khóc cười không ra tiếng. Có Bạch-hổ Thái Tuế ngộ Thất-Sát thì thân hình yếu đuối như giải khoai gặp nhiều sự tổn thương về sức khỏe.
Nên phân sinh khắc, chế hóa sao và cung của Mệnh xem giờ Sinh suy bại chi địa, sau xem giờ Quan Sát ở đâu thì biết được Thọ-yểu.
Xem số Tiểu-nhi nếu Mệnh có sao được miếu vượng đắc địa, xem 2 hạn mà đoán ít bệnh, dễ nuôi, không hình khắc cha mẹ. Nếu Mệnh có ác sát tinh tọa thủ lạc lại hãm thì xem 2 hạn mà đoán sự tai nạn thương hại, khó nuôi hay hình khắc cha mẹ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét